Thủ tục ly hôn: Công nhận cha mẹ cho con
Năm 1990, bà H. (quận Đống Đa, Hà Nội) có chung sống như vợ chồng với ông M. Sau đó, vì mâu thuẫn nên bà ra khỏi nhà khi đang mang thai. Đứa bé trai tên Q sinh năm 1991, được mang họ bà H. Sau đó, ông M kết hôn với người khác có hai đứa con trai và ly hôn vào năm 2000.
Vợ cũ phủ nhận con riêng của chồng
Cuối năm 2005, ông M. t ngột qua đời nên hai mẹ con bà H. trở về dự đám tang. Cháu Q được bà con bên nội coi là cháu đích tôn. Họ lập biên bản xác nhận cháu là con của ông M. và hứa chia cho cháu một phần di sản thừa kế. Trên cơ sở này, bà H xin chính quyền xác nhận ông M là cha cháu Q. Bà nộp hồ sơ ngày 11-4-2006 và bốn ngày sau thì được UBND Phường L.T, quận Đống Đa ra quyết định công nhận cha, con.
Người vợ đã ly hôn của ông M. không đồng ý với quyết định trên. Tuy nhiên, UBND phường đã bác đơn khiếu nại của bà. Thấy vậy, bà đã khởi kiện đến TAND quận Đống Đa để yêu cầu hủy quyết định trên. Ngày 31-7-2007, TAND quận Đống Đa đưa vụ án ra xét xử.
Căn cứ khoản 2 Điều 34 Nghị định 158 ngày 27-12-2005 của Chính phủ, tòa cho rằng UBND phường đã làm sai. Lẽ ra sau khi nhận đơn, UBND phường phải thông báo cho những người liên quan biết, nếu sau năm ngày mà không có ai tranh chấp thì mới ra quyết định công nhận cha, con.
Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 32 Nghị định 158: “Việc nhận cha, con được thực hiện nếu bên nhận, bên được nhận là cha, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, con và việc nhận cha, con là tự nguyện, không có tranh chấp”. Căn cứ điều khoản này, tòa cho rằng vào thời điểm bà H. gửi đơn thì ông M đã chết nên bà H không có đủ điều kiện để đăng ký việc nhận cha, con.
Tòa án còn cho rằng việc UBND phường L.T chỉ căn cứ vào các giấy tờ xác nhận của người thân ông M để xác nhận mối quan hệ cha con giữa ông M với cháu Q là không đúng. Muốn chính xác, các bên phải giám định gien theo các điều 63, 64 Luật Hôn nhân và gia đình.
Sau cùng, UBND phường L. T đã rút lại quyết định công nhận cha, con nêu trên và cho biết: “Gần hai tháng, sau khi ra quyết định công nhận cha, con thì UBND phường nhận được đơn của mẹ ông M xin nhận cháu nội. Để tránh được những dư luận không hay, phường sẽ giải quyết lại hồ sơ theo trình tự khác”.
Phường đúng, tòa sai?
Do bà H không kháng cáo và VKSND các cấp cũng không kháng nghị nên bản án sơ thẩm trên đã có hiệu lực. Song nhiều ý kiến cho rằng việc TAND quận Đống Đa thụ lý và giải quyết đơn kiện của người vợ cũ của ông M là sai quy định.
Theo luật định, người khiếu nại phải là người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp đến quyết định hành chính, hành vi hành chính; quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại nếu không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại sẽ không được thụ lý, giải quyết. Ở đây, quyết định công nhận cha, con của UBND phường L.T không liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ cũ ông M. Theo các chuyên gia: “Người vợ cũ chỉ được đại diện theo pháp luật cho hai đứa con chưa thành niên, chứ không thể trực tiếp đứng ra khởi kiện. Nếu chưa ly hôn thì bà mới có tư cách khởi kiện”.
Đồng tình với quan điểm trên, một cán bộ hộ tịch Sở Tư pháp Hà Nôi cho rằng: “Khi ra quyết định công nhận cha, mẹ, con, cán bộ tư pháp dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là tự nguyện và không có tranh chấp. Trong trường hợp này, nếu có một người đàn ông nào đó tự nhận là cha của đứa bé thì các cơ quan chức năng mới xem xét, giải quyết”.
Đi sâu vào nội dung, cách xét xử của tòa cũng không chuẩn xác. Theo khoản 2 Điều 34 Nghị định 158, trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, UBND cấp xã sẽ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con. Trường hợp cần phải xác minh, thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá năm ngày. Nghị định này không yêu cầu phải thông báo cho những người liên quan, hơn nữa người vợ cũ ông M không được xem là người liên quan.
Sau một thời gian ngắn, bà H lại tiếp tục gửi đơn xin nhận cha cho con. Hiện tại, UBND phường .L.T đang chờ Sở Tư pháp Hà Nội hướng dẫn cách thức giải quyết đối với trường hợp đặc biệt này.
Không thể giám định gien của người chết?
Tìm hiểu thêm từ Viện Công nghệ sinh học (Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam), chúng tôi được biết cơ quan giám định chỉ có thể giám định xương của người chết.
Nếu đứa bé đó là con trai, ngoài các em cùng cha khác mẹ, cơ quan giám định có thể căn cứ vào kết quả giám định gien của ông nội hay chú, bác ruột của đứa bé (tức cha, anh, em trai ruột của người chết) để kết luận được mối quan hệ cha-con giữa đứa bé với người chết.
Chỉ khi không có những người thân trên thì cơ quan giám định mới áp dụng biện pháp giải mã cuối cùng là giám định xương của người chết. Bấy giờ, các chuyên gia sẽ lấy xương của người chết và mẫu của người sống (như mẫu máu, tế bào, móng tay…) để xác định quan hệ cha-con.
Vụ án đã kép lại nhưng sự thật vẫn còn nhiều điều trăn trở bởi quyền của những người có liên quan được bảo vệ như thế nào? Vợ hai của ông M có quyền gì trong mối quan hệ này không? Bà H tiến hành làm các thủ tục công nhận cha mẹ con nhưng ông M đã chết.? …
Luật sư: Lê Huy Quang – Giám đốc công ty luật hợp danh Danzko Đoàn Luật sư Hà Nội
Mobi: 0912519823/ 0904230023. Tel: 04.37931223/ 37931224.
Website: www.tuvanphapluat.mobi. www.thutuclyhon.vn. www.luatsuhinh.com. www.tranhchapdatdai.com.
Mail: tuvanphapluat.mobi@gmai.com; huyquang12001@yahoo.com